1. Trang chủ
  2.  › 
  3. Văn học
  4.  › 
  5. Tác giả - Tác phẩm

Những người anh hùng trên biển Đông

31/08/2020
(Đọc Hùng binh, tiểu thuyết lịch sử của Đặng Ngọc Hưng, Nxb Trẻ, 2018) Đặng Ngọc Hưng - tác giả của Hùng binh thuộc thế hệ cầm bút 7X (sinh 1972). Anh từng chia sẻ chân thành: “Tôi luôn luôn nghĩ rằng, viết về lịch sử dân tộc là cách tỏ lòng biết ơn và tôn vinh công sức, trí tuệ của cha ông thiết thực nhất”.



 

Tiểu thuyết Hùng binh kể câu chuyện về những người dân biển bình thường nhưng vĩ đại, những người anh hùng trong ý nghĩa đầy đủ nhất của từ này. Nhưng điều đáng nói hơn cả là, Hùng binh (trong độ dày hơn 500 trang, với bố cục 20 chương) đã tái hiện được truyền thống anh hùng của nhiều thế hệ những người dân thường đã lấy máu xương chiến đấu giữ biển đảo Tổ quốc qua nhiều thế hệ (4 đời ông - con - cháu - chắt). Đọc Hùng binh tôi lại nhớ đến bài thơ Lên Cấm Sơn (1947) của nhà thơ Thôi Hữu viết trong kháng chiến chống Pháp: “Cuộc đời gió bụi pha xương máu/ Đói rét bao lần xé thịt da/ Khuôn mặt đã lên màu bệnh tật/ Đâu còn tươi nữa những ngày hoa/ Lòng tôi xao xuyến tình thương xót/ Muốn viết bài thơ thấm lệ nhòa/ Tặng những anh tôi từng rỏ máu/ Đem thân xơ xác giữ sơn hà”.

Hai mươi chương của tiểu thuyết xoay quanh trục chính “Đội hùng binh Hoàng Sa” (cũng là tựa của chương 2). Đội hùng binh làng biển An Vĩnh (cù lao Ré) với quân số bất di bất dịch theo lệnh triều đình phải đủ 70 người hằng năm. Đội lớn ấy lại chia ra 5 đội nhỏ (phân đội), đi trên 5 chiếc ghe câu trực chỉ Hoàng Sa. Những đội hùng binh này thuộc Hải đội Hoàng Sa được thành lập và hoạt động từ rất sớm, ngay từ thời các chúa Nguyễn bắt đầu cai quản Đàng Trong. Có một thời thất tán do tao loạn lịch sử. Nhưng sau khi lên ngôi hoàng đế, thống nhất đất nước, chỉ một năm sau đó vua Gia Long đã ra chỉ dụ khôi phục và củng cố lại đội hùng binh Hoàng Sa. Năm 1820, sau khi vua Gia Long băng hà, con trai lên nối ngôi, lấy niên hiệu Minh Mạng, vua con đã tiếp tục duy trì công việc tổ chức cai quản Hoàng Sa của vua cha. Căn cứ lịch sử và pháp lý đã rõ ràng như trong bài thơ thần Nam quốc sơn hà đã viết: "Sông núi nước Nam vua Nam ở/ Rành rành định phận ở sách trời/ Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm/ Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời" (Bản dịch của Trần Trọng Kim).

 

Đó là cái nền lịch sử của tiểu thuyết Hùng binh. Nhưng đã là tiểu thuyết (dẫu là tiểu thuyết lịch sử) thì vẫn cần hư cấu, xây dựng kết cấu, cốt truyện, tình huống, nhân vật,... Kết cấu của Hùng binh theo phép truyền thống “tuyến tính”: câu chuyện được kể theo trình tự thời gian. Không thấy bóng dáng của các thủ pháp/ kỹ xảo của “hậu hiện đại” hay “dòng ý thức”. Cốt truyện nương theo các sự kiện lịch sử. Nhưng lịch sử thông qua các nhân vật có số phận cụ thể (có cá tính, thân phận, cảnh ngộ, tâm trạng, kết cục). Nhân vật của Hùng binh được mô thức hóa qua “bốn ngôi”: ông nội - con trai - cháu nội - chắt nội. Dòng họ này nhiều đời bám biển như là nghề sinh tồn.

Nhưng ngoài mưu cầu sống cho gia đình, bản thân họ còn có nghĩa vụ với triều đình, cũng là với dân với nước trong tinh thần đại nghĩa. Nếu nói có một nhân vật chính/ trung tâm thì đó là Triều. Sau khi cha đẻ mất trong chuyến đi biển theo nhiệm vụ thường niên của đội hùng binh làng An Vĩnh, sau khi ông nội đã già, Triều là trụ cột chống chèo trong gia đình nhỏ, đã đành, anh còn là người chỉ huy tiên phong của đội hùng binh mới. Không kể hết gian khổ hy sinh của đội hùng binh làng An Vĩnh (cũng như nhiều đội hùng binh khác lúc bấy giờ), tác giả tập trung miêu tả ý chí, tinh thần vượt khó, vượt khổ của những người dân miền biển bình thường nhưng ý thức công dân lại hết sức cao cả, với tinh thần “dĩ công vi thượng”. Triều là nhân vật chính được khắc họa từ nhiều phía: tình yêu gia đình, quê hương, biển cả; lòng dũng cảm, trí thông minh trong nghề biển và trong nhiệm vụ của đội hùng binh. Nếu chỉ dừng lại đó thì nhân vật này vẫn chỉ mới gợi niềm tin yêu chân thành ở người đọc. Nhưng hơn thế, anh còn là con người chính trực, dám làm và dám nghĩ, dám chịu trách nhiệm.

Trong chương 18 (“Câu chuyện ở Điện Thái Hòa”) lại mở ra một cách nhìn mới của độc giả về nhân vật này - dám nói lên sự thật trước vua chúa, một việc không phải ai cũng làm được nếu chỉ bảo an, cầu hòa. Anh nói rành rẽ trước mặt vua nhưng cũng là trước bàn dân thiên hạ: “Con xin hoàng thượng thấu hiểu nỗi đau mất mát của làng An Vĩnh chúng con mà ra ân đặc xá miễn suất đội binh phu cho những người là con trưởng hoặc cháu đích tôn để các nhà đều có người sống mà nối dõi dòng giống và lo hương khói cho những người đã khuất” (trang 468). Không ít bậc quân vương ngồi trên ngai vàng trong lịch sử đã không biết hoặc cố tình không biết thành quả của xã tắc nếu có được là đánh đổi bằng xương máu của muôn dân. Cái giá của thắng lợi đâu có dễ dàng và rẻ rúng. Máu người không phải là nước lã. Hòa bình, ổn định, ấm no, hạnh phúc cho muôn dân đâu phải chỉ đổi bằng ba tấc lưỡi. Như vậy, Triều là người đã sống theo phép tắc đạo lý “mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người”. Triều hy sinh anh dũng trong chuyến đi biển thực thi nhiệm vụ của người chỉ huy đội hùng binh làng An Vĩnh cuối cùng (chương 20). Nhưng cái kết của Hùng binh thật bi tráng, lạc quan, khi đứa cháu trai nội của Triều hỏi bà nội: “Hoàng Sa là ở đâu vậy bà?”, và hỏi tiếp: “Vậy chừng nào con lớn con có ra được Hoàng Sa không hả bà?” (trang 534). Đó là một cái kết rất “mở” (vì cái kết nào cũng tỏ rõ thái độ, lý tưởng thẩm mỹ của nhà văn với đời sống và con người). Cái kết đúc lại, đẩy lên cao âm hưởng/cảm hứng của tiểu thuyết Hùng binh - bi tráng, lãng mạn.

 

Viết về truyền thống lịch sử oai hùng của cha ông là một cách “ôn cố tri tân”. Thực tiễn văn chương chứng minh sự trở lại của đề tài lịch sử trên văn đàn Việt đương đại báo hiệu tinh thần quật khởi của nghệ thuật ngôn từ khích lệ lòng yêu nước, ý chí quật cường của dân tộc trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước suốt mấy nghìn năm lịch sử. Có thể nói, từ Hồ Quý Ly của Nguyễn Xuân Khánh (Giải A Cuộc thi tiểu thuyết lần thứ nhất, 1997 - 2000 của Hội Nhà văn Việt Nam), tiểu thuyết về đề tài lịch sử đang trở lại ngôi vị đáng kính của mình với sự tiếp nối nhiều tác phẩm thành công xuất hiện sau đó đến tận hôm nay như: Hội thề của Nguyễn Quang Thân, Thế kỷ bị mất của Phạm Ngọc Cảnh Nam, Minh sư của Thái Bá Lợi, Sương mù tháng Giêng của Uông Triều, Trần Khánh Dư của Lưu Sơn Minh, Đức Thánh Trần của Trần Thanh Cảnh, Đinh Tiên Hoàng của Vũ Xuân Tửu, Chim ưng và chàng đan sọt của Bùi Việt Sỹ, Thông reo Ngàn Hống của Nguyễn Thế Quang, Từ Dụ thái hậu của Trần Thùy Mai, bộ ba Ngô Vương, Phùng Vương, Nam Đế Vạn Xuân của Phùng Văn Khai,...

 

Hùng binh của Đặng Ngọc Hưng góp thêm vào dòng tiểu thuyết lịch sử một bằng chứng sinh động về trách nhiệm công dân của nhà văn trước yêu cầu của đời sống. Lòng yêu nước không độc quyền, đó là “sợi chỉ đỏ”, là “cấu tứ” của tác phẩm của một cây bút trẻ thế hệ 7X hiện đang được xem là “chủ lực quân” của đội ngũ sáng tác hùng hậu. Lâu nay nói đến thế hệ 7X trong sáng tác văn chương/tiểu thuyết người ta hay nhắc đến Đỗ Bích Thúy, Nguyễn Ngọc Tư, Nguyễn Đình Tú, Đỗ Tiến Thụy, Trần Nhã Thụy, Uông Triều, Nguyễn Thế Hùng, Như Bình, Phong Điệp, Dili, Tống Ngọc Hân,... Ít người trong giới phê bình chịu khó đọc và tìm kiếm những gương mặt mới có cá tính như Đặng Ngọc Hưng. Tôi nghĩ, anh thuộc về “bè trầm” trong dàn nhạc giao hưởng. Hùng binh góp thêm tiếng nói bằng nghệ thuật hun đúc lòng yêu nước thương nòi cần thiết phát huy hơn bao giờ hết trong bối cảnh biển Đông đang dậy sóng.

   

Bùi Tùng Ảnh/Người Hà Nội

http://nguoihanoi.com.vn/nhung-nguoi-anh-hung-tren-bien-dong_262306.html

Tin cùng chuyên mục


Logo

Tin tức tổng hợp Kinh tế & đời sống: Thông tin đa chiều

Giấy phép hoạt động trên mạng Internet số: 3135/GP - TTĐT, STTTT Hà Nội cấp ngày 20/6/2019. Giấy phép sửa đổi, bổ sung số: 4876/GP - TTĐT, cấp ngày 08/10/2019.

Chịu trách nhiệm quản lý nội dung: Trần Thị Hạnh

Trụ sở: 99/26 Định Công, quận Hoàng Mai, Hà Nội, Việt Nam

Đường dây nóng: 0388308001 - Email: toixkld@gmail.com

Vận hành bởi: Công ty Cổ phần Truyền thông Hạnh Nguyên (Hanh Nguyen CSC)