1. Trang chủ
  2.  › 
  3. Văn học
  4.  › 
  5. Tác giả - Tác phẩm

Nhà thơ Trần Nhuận Minh Tỏa sáng để tồn tại

22/06/2021
Nhà thơ Trần Nhuận Minh Tỏa sáng để tồn tại
Nhà thơ Trần Nhuận Minh
 

Câu thơ như gan ruột

Phơi ra giữa trời mây
Mỗi người một số phận
Ngang qua thế gian này…
 
Không phải ngẫu nhiên, Trần Nhuận Minh “đặt” bốn câu thơ này làm tựa cho tập Nhà thơ và hoa cỏ (tập thơ cùng trường ca Bản xônát hoang dã đoạt Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật đợt II năm 2007).
 
Bốn câu thơ trên, Trần Nhuận Minh rút ra từ bài Bạn thơ mời rượu bên sông Tiền (viết tại Sóc Trăng - Mỹ Tho, 30/10/1999). Tính đến thời điểm bài thơ ra đời, Trần Nhuận Minh đã trải ngót bốn mươi năm (kể từ khi ông công bố những bài thơ đầu tiên vào đầu những năm sáu mươi) thâm nhập cuộc sống với sự quan sát, ngẫm ngợi, chiêm nghiệm, để nhận thức và nhận thức lại những cái trông thấy cùng những điều chỉ có thể cảm nhận, từ đó thức nhận, cấu trúc tư duy thơ gần đúng với những quy luật vận động bất biến của tồn tại. Sau thời điểm đó, ông vẫn miệt mài sáng tạo, để chưa đầy 5 năm sau, mở đầu trường ca Bản xônát hoang dã (in lần đầu năm 2003), Trần Nhuận Minh dẫn lời Kinh Thánh:
 
Hãy gõ cửa rồi cửa sẽ mở
Hãy tìm rồi người sẽ gặp…
 
Qua đó có thể thấy hành trình thơ của Trần Nhuận Minh đã đến rất gần chân lý mà ông muốn nhận chân. Đó là bước tiến trong tư duy của nhà thơ, mặc dù đã có lần Trần Nhuận Minh viết:

“Ta rong chơi thôi mà, có tư tưởng gì đâu…” (câu kết trong bài Chơi thuyền trên vịnh Hạ Long, 1985). 
***
 
Thành tựu thơ của Trần Nhuận Minh trên hành trình tiếp cận bản chất chân thực của sự sống, tính đến thời điểm hiện tại, thể hiện tập trung cao độ ở hai trường ca Đá cháy và Bản xônát hoang dã. Hai văn bản này, ra đời cách nhau 18 năm (1985 và 2003), cho thấy: sự chuyển dịch trong tư duy thơ của Trần Nhuận Minh là nhất quán, với biên độ tiếp cận đối tượng thăng tiến qua nhiều góc độ nhận thức và phương thức lựa chọn hình thức biểu cảm tương hợp.            
Tạp chí Thơ số 5&6 - 2020 in trường ca Đá cháy của nhà thơ Trần Nhuận Minh với lời “tường trình” của tác giả: trường ca được khởi thảo từ những năm 1962 - 1969, hoàn thành vào năm 1985, nhưng “cuối cùng, tôi kiên quyết cắt bớt tất cả những gì mà tôi cho là kể lể sự kiện và minh hoạ, chỉ còn giữ lại non 1000 dòng thơ” (bản thảo ban đầu gần 5000 dòng thơ). Trường ca Đá cháy in trong tập Nhà thơ và hoa cỏ (cùng trường ca Bản xônát hoang dã, 2014) cũng đã có sự “cắt gọt”, nhưng Trường ca Thợ mỏ 1985 vẫn ở dạng trích và chưa đặt số chương (từ I đến IV). Từ lúc khởi thảo đến khi chính thức định hình (như bản in trong tạp chí Thơ số 5&6 - 2020), trường ca Đá cháy đã trải qua một chặng đường dài với sự “điều chỉnh” nghiệt ngã của tác giả, nhằm đạt tới sự nhất quán và tương hợp, giữa nội dung và hình thức, mà nhà thơ lựa chọn cho hành trình thơ của mình; trong đó, việc đoạn tuyệt với “kể lể sự kiện và minh hoạ” là một “chiêu thức” để tiệm cận chân - thiện - mỹ một cách giản dị mà hiện đại. 
 
Giữa hai trường ca Đá cháy (bản in năm 2020) và Bản xô nát hoang dã có những tương đồng căn bản và những khác biệt tất yếu. Tương đồng ở cách nhìn và lý giải sự sống, trong sự dịch chuyển cách nhìn và thể hiện đối với các mối quan hệ hữu cơ giữa các hiện tượng và sự vật, giữa cái trông thấy và cái chỉ có thể cảm nhận, nâng lên thành triết lý mang tính luân lý, đạo lý, tạo nên những cung đoạn phức hợp, nấc thang trước làm đà để bước tiếp lên nấc thang cao hơn. 
 
Ở trường ca Đá cháy, nhà thơ viết: “Mặt trời lặn vào than - hiện ra thành lửa”. Đây không phải là phát hiện mà là từ nhận thức này dẫn tới một nhận thức khác, mang tính triết luận “Bài học của than tỏa sáng/ KHÔNG TỎA SÁNG THÌ KHÔNG TỒN TẠI” và trở thành điệp khúc và biến tấu trong suốt Chương IV - Lửa, với những phức điệu trầm bổng.
 
Nhà thơ Trần Nhuận Minh Tỏa sáng để tồn tại
Bìa sách Trần Nhuận Minh

Nhà thơ Trần Nhuận Minh Tỏa sáng để tồn tại
Trường ca Đá cháy
 
Trần Nhuận Minh đã tỏa sáng khi “Phơi ra giữa trời mây” những câu thơ từ gan ruột và cũng từ đó “phơi ra” số phận của mình. Cái số phận đã gắn nhà thơ với vùng than và những người thợ mỏ, như một định mệnh. Nỗi niềm ấy được “xác định” trong “Bản hợp đồng” giữa nhà thơ và đá: “Rằng/ Tôi đã sống ở đây - sẽ chết ở đây - như một Người Thợ/ Ngày đêm trút linh hồn vào chữ…” và “Mặt trời lặn vào than - hiện ra thành lửa/ Họ lặn vào thơ tôi… thành câu/ Thơ tôi nổi chìm trong bao số phận”. Chọn “Mảnh đất hình cánh dơi” làm quê hương, trái tim nhà thơ “tự hát lên/ Khi gặp hòn than và người thợ mỏ”. Gắn bó với vùng than Đông - Bắc của Tổ quốc, những biên độ tình cảm và sắc màu trong thơ Trần Nhuận Minh luôn dịch chuyển góc nhìn, để có được những câu thơ gan ruột “Phơi ra giữa trời mây”, bày tỏ sự chiêm nghiệm thăng trầm: “Lòng dân dù ở thời nào/ Vẫn như mây nước thấm vào cỏ hoa” (Ông Hủi), hay “Bao việc phi thường rồi cũng hóa thường thôi” và “Cứ im lặng là tự nhiên hiểu hết” (Tiễn bạn ở rạp chiếu bóng), rồi lúc ngoái lại nhà thơ nhận thấy “Khi trời đất bỗng nhiên ắng lạ/ Neo nhà đi! Bão lớn sắp đến rồi” (bài số 5 trong Ngẫu hứng) và “Cái Ác vỗ vai cái Thiện/ Cả hai cùng cười đi về tương lai…” (bài số 9 trong Ngẫu hứng)…
 
Dường như Trần Nhuận Minh xây dựng trường ca Đá cháy trên nền tảng âm hưởng nhạc rốc. Tính điệp khúc, với những biến tấu đa dạng, làm nên nhịp điệu gắn kết các ý thơ, câu thơ thành những chuỗi âm thanh vừa mềm dẻo vừa sắc cứa của sự tăng tiến tiết tấu, vừa khoan thai vừa hối hả, biểu tả thang bậc hòa quyện giữa con người và môi trường thiên nhiên vùng mỏ đầy sóng gió, nơi mà ông đã lặn vào cuộc sống của những người thợ đầy gian nan vất vả, đầy nghịch lý, nhiều biến động, để từ đó thơ ông chất chứa những suy tư mang tính bản ngã rất rõ rệt. Cái tôi trữ tình của nhà thơ hòa làm một vào cái tôi đầy sinh khí của vùng đất ông tự nguyện hiến dâng cuộc đời. Ông ví mình như tảng đá đen liền khối với ngọn lửa bên trong âm ỉ cháy, cháy đến tận cùng; nhưng… “Nhưng tôi không tắt đâu - Không bao giờ tắt/ Như vỉa than/ Tôi nhô lên một mình/ Xấu xí và đơn độc/ Trong khi chín mươi chín phảy chín phần trăm tôi/ Liền khối dưới đất sâu/ Chân xoạc rộng dài/ Từ đáy sông Lục Đầu đến đáy vịnh Bắc Bộ/ Và lặng im - Như một tiếng vang…”, và ý thơ nâng lên thành tứ thơ vững vàng, khỏe khoắn: “Vinh nhục vui buồn lặn vào cuộc đời tôi/ Như vết than lặn vào da thịt/ Có thể sau này khi tôi chết/ Những nỗi niềm thành khối vẫn không tan…/ Tôi sẽ đầu thai làm Ngọn Lửa/ Cháy điên khùng trong đất tối âm u…” Có cái tôi tự sự ấy mới có cái tôi đồng cảm mang tính đồng loại, chung sống cùng đồng loại - cùng cháy đấy mà vẫn không tắt, không tan. 
 
Âm hưởng rốc trong trường ca Đá cháy đem đến cuộc sống nơi trần gian, cụ thể là vùng than bên vịnh Hạ Long “huyền ảo”, một sự cháy để tồn tại. Ngược lại, âm hưởng xônát đã nâng cái tôi trữ tình hòa vào cái tôi hư ảo ở trên cao, được biểu cảm trong trường ca Bản xônát hoang dã như vòng tuần hoàn lớn của nước. Đến tác phẩm này, nhà thơ - Trần Nhuận Minh “Bừng thức”: “Hạt mưa mơ hồ nhuốm làn mây mong manh/ Làm ngào ngạt bao nỗi niềm dưới đất/ Hư ảo hỡi! Giữa vô cùng Còn, Mất/ TA là ai? Thăm thẳm có TA không?...”. Thoát khỏi tự sự, nhà thơ chủ động “Là tình nhân ba trăm sắc thu buồn/ Mọi yêu ghét ta chẳng cần nhớ nữa/ Vĩnh biệt nhé, ráng chiều côi cút gió/ Ta một mình với một Đấng Mê Tơi!...”. 
 
Nhận ra và “bay” theo cõi  Đấng Mê Tơi, một lần nữa nhà thơ thực hiện cuộc dấn thân cho thơ. Việc đoạn tuyệt với “kể lể sự kiện và minh họa” để hoàn thiện Đá cháy là chưa dứt khoát, còn vấn vương; nhưng lần này người thơ hoàn toàn dâng hiến để có được Bản xônát hoang dã tràn đầy ánh sáng, để trông thấy “Cái Màn đêm phản trắc đầy cạm bẫy” và “Cái Ánh ngày chính trực anh minh” hòa hợp làm nên sự tuyệt mỹ: “Ấy là lúc mặt trời sắp lên - Và ráng chiều sắp tắt/ Không gian đằm thắm - Huyền ảo mang mang/ Là lúc cùng sinh ra - Thiên Thần và Quỷ Sứ/ Lúc Nhà Thơ và Kẻ Trộm - Cùng hào hứng bước ra khỏi nhà”. Ánh sáng ấy là ánh sáng của tâm hồn, của thức nhận bằng trực giác, ước mong soi tỏ nhiều điều uẩn khúc giữa cái thực và cái ảo. Ánh sáng ấy cho thấy, giữa con người và thiên nhiên hằng xoắn xuýt lấy nhau, không bao giờ và không thể nào tách khỏi nhau. Ánh sáng ấy cũng cho thấy, cái hiện ra trước mắt là sự tách bạch, đơn điệu đến nhàm chán, còn cái bị khuất lấp mới đích thực ẩn chứa nguyên do của sự sống, làm động lực cho cuộc sống luôn ở thế vận động và chuyển hóa. “Sáu mươi năm bò toài trên mặt đất”, người thơ bừng tỉnh vì “Vẫn không hiểu lẽ đời…”, chỉ đến khi “Đấng Mê Tơi” chỉ dẫn: phải nhắm mắt lại để nhìn thấy, phải bịt chặt tai để nghe cho tường, thì hóa ra “Những bí ẩn xanh rờn/ Dạt dào tuôn chảy tự trời cao…”. 
 
Cái tồn tại ở trường ca Bản xônát hoang dã khác xa ở trường ca Đá cháy. Không cần nữa Tỏa sáng, mà “Cái nghiệt ngã của Đấng Mê Tơi/ In lên khắp thế gian - Như một định mệnh? Bất chấp mọi ý muốn/ Và cứ thế tồn tại - Như một quy luật vĩnh cửu/ Và cứ thế bất biến - Như một điều tốt lành…”. Hành trình thơ của Trần Nhuận Minh tiệm cận tới bản ngã của Đấng Mê Tơi, là thế. Đã không phải là Thánh thì không một ai người trần mắt thịt có thể thấu triệt và bước được qua cánh cửa, nơi Đấng Sáng tạo toàn năng trị vì và điều khiển sự sống muôn loài, mà chỉ tiệm cận để thức nhận. Người thơ Trần Nhuận Minh đã đến rất gần cánh cửa đó khi cuộc hành trình thơ của ông Đi ngang thế gian (tên đặt cho chương cuối trường ca Bản xô nát hoang dã, nhắc lại câu thứ tư của tựa cho trường ca Đá cháy) và cánh cửa mở ra: “Kim Tự Tháp đứng im mà vẫn bay vạn dặm/ Kẻ giỏi hạ cây đâu cần đến sức rìu…” - rất thực mà vẫn không thực, rất ngẫu nhiên mà lại là tất yếu. Từ triết lý nhà thơ chuyển mình sang đạo lý “Tất cả đổi thay nhanh - dù vẫn sớm vẫn chiều/ Tôi không đổi thay - Càng mới thì càng cũ/ Đi ngang thế gian - mặt đầy hầm hố/ Tôi cắp nách một kho vàng - Toàn là ánh trăng suông…”
***
 
Dù Trần Nhuận Minh viết “Ta rong chơi thôi mà, có tư tưởng gì đâu…” và “Tôi cắp nách một kho vàng - Toàn là ánh trăng suông…”, thì đừng cho rằng nhà thơ cố tình khiêm tốn. Ông thực sự là người khiêm nhường, khiêm cung cả trong đời thường cả trong thơ. Điều cần khẳng định: Thơ Trần Nhuận Minh dần dần và dứt khoát đoạn tuyệt với lối kể lể, minh họa, để đến với sự bứt phá về cấu trúc và hình thức biểu đạt một cách phóng khoáng, tạo cho thơ ông sức lay động người đọc bằng sự tuôn trào cảm thức liền mạch, không câu nệ vào khuôn khổ của bất cứ một thể thơ nào, một khuynh hướng nào. Thay đổi hình thức và cấu trúc thơ hiện đại, nhưng thơ ông không cắt đứt tư duy thơ truyền thống mang tính minh triết mà các nhà thơ tiền bối của dân tộc đã xây nền móng vững chắc. Chữ trong thơ ông không mấy lạ, song nghĩa của chúng đa tầng, có tính ẩn dụ cao, cấp cho người đọc trường suy tưởng mới và rộng. 
 
Bằng ngôn ngữ thơ, Trần Nhuận Minh đã vẽ nên hai bức tranh tổng thể, khái quát hai chặng đường của cuộc hành trình tiệm cận bản chất chân - thiện - mỹ: từ mô tả chi tiết đến chính xác, ở chặng đầu, chuyển sang biểu tả cái thần thái của toàn cảnh, ở giai đoạn sau. Đó là sự chuyển mình quyết liệt trong phong cách nghệ thuật thơ của Trần Nhuận Minh, theo đúng tinh thần Sự chính xác đâu phải là sự thật! - Nghệ thuật là tự thân! Xuất phát từ tấm chân thực mà có được lòng hướng thiện và, do vậy nhà thơ vươn tới cái toàn mỹ.
 
Sau cuộc hành trình 60 năm của gần 80 năm tuổi đời, thơ Trần Nhuận Minh đã đạt thành tựu đáng trân trọng. Thành tựu ấy dâng đời một Khuôn viên thơ đẹp. Thơ ông tỏa sáng và tồn tại theo đúng nghĩa của hai từ này!
Người Hà Nội
http://nguoihanoi.com.vn/nha-tho-tran-nhuan-minh-toa-sang-de-ton-tai_266908.html

Tin cùng chuyên mục


Logo

Tin tức tổng hợp Kinh tế & đời sống: Thông tin đa chiều

Giấy phép hoạt động trên mạng Internet số: 3135/GP - TTĐT, STTTT Hà Nội cấp ngày 20/6/2019. Giấy phép sửa đổi, bổ sung số: 4876/GP - TTĐT, cấp ngày 08/10/2019.

Chịu trách nhiệm quản lý nội dung: Trần Thị Hạnh

Trụ sở: 99/26 Định Công, quận Hoàng Mai, Hà Nội, Việt Nam

Đường dây nóng: 0388308001 - Email: toixkld@gmail.com

Vận hành bởi: Công ty Cổ phần Truyền thông Hạnh Nguyên (Hanh Nguyen CSC)